Nội dung bài viết [Hiện]
Da đóng vai trò là rào cản đầu tiên của cơ thể chống lại vi khuẩn và virus, có chức năng bảo vệ, miễn dịch, kiểm soát nhiệt độ, gây tê….
Cấu trúc của da gồm 3 lớp chính: biểu bì, hạ bì và mô dưới da.
– Biểu bì: Lớp ngoài cùng của da, bao gồm 5 lớp tế bào theo thứ tự từ trong ra ngoài: Lớp đáy (stratum basale), lớp tế bào gai (stratum spinosum), lớp hạt (stratum granulosum), lớp bóng (stratum lucidium), lớp sừng (stratum corneum).
– Hạ bì: Cấu trúc dày, đàn hồi và bao gồm 2 lớp: Lớp đáy và lớp lưới (nơi tiếp xúc với biểu bì). Có chức năng giúp làm nhẹ đi các tác động từ bên ngoài và khi tổn thương xảy ra, chúng có chứa các mô liên kết giúp làm lành vết thương như nguyên bào sợi và dưỡng bào.
– Mô dưới da: Lớp da ở phía trong cùng là nơi tạo ra năng lượng của cơ thể, đồng thời hoạt động như một tấm đệm và cách nhiệt cho cơ thể. Bao gồm: các tế bào mỡ, các sợi collagen và mạch máu.
Vết thương là những tổn thương làm mất tính toàn vẹn trên da, làm phá vỡ cấu trúc và chức năng giải phẫu thông thường của lớp biểu bì của da, các mô dưới da gây tổn thương cho các cấu trúc khác như gân, cơ, mạch máu, dây thần kinh, nhu mô và xương.
Quá trình lành thương diễn ra tự nhiên theo cơ chế sinh lý của cơ thể, thời gian lành vết thương tuỳ thuộc vào vị trí và độ rộng của vết thương, tốc độ tái sinh của các tế bào bị tổn thương và tổng trạng của người bệnh.
Quá trình này diễn ra qua 4 giai đoạn:
– Đông máu: Do tác động của ngoại vật, vết thương chảy máu và quá trình đông máu bắt đầu sau đó ngay lập tức, nhằm kích thích sự hoạt hóa của tiểu cầu và các yếu tố đông máu khác. Từ đó, các yếu tố này tác động lên các mao mạch nhỏ, hình thành lên các cục máu đông có tác dụng ngăn chặn sự chảy máu của vết thương.
– Viêm: Giai đoạn này diễn ra do có sự can thiệp của bạch cầu trung tính và đại thực bào có nhiệm vụ dọn dẹp những vật thể lạ xâm nhập vào vết thương bằng hiện tượng thực bào, quá trình diễn ra trong vòng 24 – 48 giờ.
– Tăng sinh: Sau giai đoạn đông máu và giai đoạn viêm thì giai đoạn tăng sinh bắt đầu diễn ra (thường ở ngày thứ 2 sau khi bị thương).
+ Tăng sinh nguyên bào sợi: quá trình này diễn ra khi những nguyên bào sợi ở những vùng xung quanh di chuyển tới vết thương, những nguyên bào sợi này tăng sinh, kết hợp với collagen, proteoglycan, glycosamin sẽ hình thành chất nền mô liên kết của tế bào hạt.
+ Hình thành mô liên kết: trong quá trình tăng sinh, nguyên bào sợi kết hợp với collagen hình thành chất nền mô liên kết, thúc đẩy quá trình hình thành cấu trúc mô khi bị tổn thương và tạo ra độ bền vững cho vết thương. Bên cạnh đó collagen còn hỗ trợ thúc đẩy hoạt động của các yếu tố tăng trưởng.
+ Hình thành mao mạch: vết thương muốn lành nhanh cần có dinh dưỡng từ máu thông qua hệ thống mao mạch. Từ hoạt động của các đại thực bào và nguyên bào sợi giúp kích thích hình thành hệ thống mao mạch mới nuôi dưỡng vết thương.
+ Tăng sinh biểu mô: quá trình tăng sinh biểu mô được xem là quá trình then chốt của quá trình lành vết thương. Tốc độ tăng sinh biểu mô tùy thuộc vào diện tích và độ nông sâu của vết thương.
+ Liền vết thương: đặc trưng của giai đoạn này là các nguyên bào sợi làm nhiệm vụ kéo các mô về trung tâm, giúp vết thương liền miệng, hạn chế sẹo.
– Sửa chữa: Giai đoạn này bắt đầu ngay khi quá trình liền vết thương diễn ra. Đây là giai đoạn giúp khôi phục lại tính toàn vẹn và chức năng của mô. Nó không những giúp vết thương liền nhanh hơn, bền vững hơn mà còn quyết định tới hình dạng vết thương sau quá trình lành hoàn thiện.
Nếu giai đoạn này diễn ra nhanh và mạnh có thể làm vết thương hình thành sẹo lồi và ngược lại.
Trên đây là các giai đoạn của quá trình liền vết thương, như vậy cơ thể có cơ chế tự liền vết thương và không cần can thiệp từ bên ngoài. Tuy nhiên có những tổn thương nhiễm trùng có thể gây nguy hiểm cho người bệnh nếu không được chữa trị kịp thời, hoặc một số tổn thương mãn tính ở người mắc bệnh tiểu đường, người bị loét do nằm lâu một chỗ hay vết thương ở người già đều khó có thể tự lành nếu không được can thiệp.
4. Yếu tố ảnh hưởng
Có nhiều yếu tố có thể khiến quá trình lành thương diễn ra nhanh hay chậm hơn:
Ngoài các yếu tố kể trên, trong suốt quá trình liền thương, tốc độ vết thương liền nhanh hay chậm còn phụ thuộc rất nhiều vào 2 yếu tố: Độ ẩm và nồng độ gốc tự do.
Gốc tự do – Reactive oxygen species
Reactive oxygen species (ROS) hay còn gọi là gốc tự do – đây là một thuật ngữ chỉ một nhóm các phân tử không ổn định và chưa hoàn thiện, trong phân tử đó có chứa các electron chưa ghép cặp.
– Sinh lý gốc tự do
Khi xuất hiện vết thương, mô bị tổn thương sẽ giải phóng ra các enzyme tương ứng để kích hoạt bạch cầu trung tính và đại thực bào sản xuất ra gốc tự do để tiêu diệt vi khuẩn. Nồng độ các gốc tự do thường gia tăng nhanh trong quá trình viêm nhiễm.
Trong sinh lý vết thương, gốc tự do đóng vai trò quan trọng như:
+ Tiêu diệt vi khuẩn và các yếu tố ngoại lai: Trong giai đoạn viêm, bạch cầu trung tính và đại thực bào di chuyển đến nơi tổn thương và bắt đầu tiết ra một lượng lớn ROS. ROS trực tiếp tấn công, gây chết các vi khuẩn và các mảnh vỡ tế bào trong vết thương.
+ Tín hiệu để sản xuất yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu: Thông qua các tín hiệu từ H2O2, tại vết thương bắt đầu diễn ra quá trình tăng sinh mạch máu, tăng sản xuất các yếu tố tăng trưởng, tế bào miễn dịch, tái tạo biểu mô, từ đó hỗ trợ tế bào biểu bì tăng sinh và di chuyển.
+ Tham gia vào việc tái tạo biểu mô: Ngoài ra, H2O2 còn kích hoạt các thụ thể sản xuất các yếu tố tăng trưởng biểu bì và yếu tố tăng trưởng keratinocyte, dẫn tới sản xuất ra các nguyên bào sợi giúp hỗ trợ gia tăng các tế bào biểu bì và sự biểu mô hóa vết thương.
Gốc tự do (ROS) là những phân tử hoạt động rất mạnh và chúng có xu hướng liên tục tấn công các phân tử gần nó để lấy và bắt cặp với các electron của phân tử này. Sau sự tấn công đó, gốc tự do (ROS) mới được tạo ra và tiếp tục tấn công các phân tử liền kề với nó. Chính sự tấn công liên tục của các gốc tự do đã hình thành nên chuỗi phản ứng và gây phá huỷ các mô và tế bào sống cũng như các mô và tế bào mới hình thành.
Sự tấn công của gốc tự do
Ngoài ra, nồng độ gốc tự do tại vết thương có thể gia tăng bởi các thuốc sát khuẩn như Povidone iodine, oxy già… Do bản thân các thuốc sát khuẩn này đều có tính oxy hoá rất mạnh, khi sử dụng trực tiếp lên vết thương, các thuốc sát khuẩn này vô tình gây chết hàng loạt các mô và tế bào, đồng thời, làm gia tăng lượng gốc tự do.
Lúc nồng độ các gốc tự do vượt qua mức sinh lý của cơ thể cũng chính là lúc quá trình lành thương đã bị ảnh hưởng. Cụ thể, chúng sẽ gây ra sự mất cân bằng oxi hóa:
Từ đó, quá trình liền thương đòi hỏi sự cân bằng giữa tác dụng của ROS và hạn chế ảnh hưởng khi ROS sản xuất quá mức.
Độ ẩm
Độ ẩm là yếu tố tác động mạnh mẽ lên quá trình liền vết thương. Hiện nay tất cả các hội điều dưỡng trên thế giới đều khuyến cáo duy trì độ ẩm tại chỗ trong việc chăm sóc và điều trị vết thương. Nhiều kết quả nghiên cứu đều thống nhất rằng với vết thương được duy trì một độ ẩm phù hợp sẽ làm giảm thời gian liền thương đến 50% so với để vết thương khô, từ đó đã ra đời khái niệm liền thương ướt.
Tất cả các tế bào, cũng như các quá trình sinh lý – hóa lý diễn ra trong cơ thể đều cần một môi trường để sinh sống, hoạt động nhằm hoàn thành các vai trò cụ thể, và môi trường đó chính là độ ẩm.
Độ ẩm đã được chứng minh sẽ tạo ra môi trường sinh lý nhằm tối ưu hóa năng suất của các thành phần có ích tác động quá trình liền thương.
Từ hai khái niệm “Gốc tự do” và “ Lành thương ướt” trên đây, có hai vấn đề chúng ta cần phải giải quyết trong tiến trình chăm sóc vết thương:
SỰ RA ĐỜI CỦA SẢN PHẨM HemaRos ĐÃ GIẢI QUYẾT ĐƯỢC HAI VẤN ĐỀ TRÊN
Trong những năm 1960, Cộng Hòa Séc đã cống hiến cho nhân loại một phát minh mới, đây được xem là một công trình phát minh về lĩnh vực y tế lớn nhất thế kỷ XX, đó là phát minh về kính áp tròng mềm có chứa thành phần polymer 2-hydroxyethyl methacrylate (HEMA) được thực hiện bởi Giáo sư Wichterle.
Đến năm 1990, Tiến sĩ Y khoa Jiri Labsky đã kết hợp polymer HEMA này với 1 gốc amin với hiệu ứng chắn không gian và tạo thành cấu trúc có tên gọi là HEMA-HAS, cấu trúc này có thể thu hồi các gốc tự do dư thừa sản sinh trong giai đoạn viêm của tiến trình lành thương.
Đến năm 1997, công trình nghiên cứu này của Phân Viện Hóa Cao Phân tử thuộc Viện Hàn Lâm Khoa Học Cộng Hòa Séc được cấp bằng sáng chế và sản xuất công nghiệp bởi VH Pharma, a. s. Đến nay sản phẩm đã khẳng định thương hiệu với hơn 20 năm trên thị trường. Và HemaRos được xem là một sản phẩm không thể thiếu trong tủ thuốc gia đình của người dân Châu Âu.
HemaRos gồm 3 thành phần:
HemaRos tác động thông qua 3 cơ chế
– Thu hồi gốc tự do dư thừa:
Đây là cơ chế đặc trưng nhất, giúp HemaRos nổi bật giữa những dòng sản phẩm trị thương hiện nay trên thị trường.
Với cấu trúc đặc trưng chứa nhóm amin có hiệu ứng chắn không gian, HemaRos sẽ tác dụng lên các gốc tự do để biến chúng thành các gốc nitroxit bền vững từ đó thu hồi được các gốc tự do dư thừa sản sinh quá mức trong giai đoạn viêm, đưa nồng độ gốc tự do về mức sinh lý. Nhờ đó, ngăn được tác động bất lợi của gốc tự do và đẩy nhanh quá trình lành thương của vết thương.
Nghiên cứu in vitro được thực hiện bởi Phân Viện Hóa Cao Phân tử thuộc Viện Hàn Lâm Khoa Học Cộng Hòa Séc đã chứng minh HemaRos có khả năng thu hồi các gốc tự do.
Sơ đồ biểu thị nồng độ gốc tự do giảm dần trong nghiên cứu In vitro
Dựa trên phương pháp đo quang phổ hấp thụ tại bước sóng 527 nm, kết quả nghiên cứu cho thấy sau 220 phút, trong môi trường có chứa nhóm HAS (thành phần mang lại tác dụng thu hồi gốc tự do trong HemaRos), nồng độ gốc tự do DPPH giảm rõ rệt từ 0,4 (theo độ hấp thụ quang phổ) xuống 0,08 (tương đương mức giảm 5 lần).
– Tối ưu hóa độ ẩm, pH:
– Hàng rào polymer hạn chế nhiễm khuẩn:
HemaRos tạo một hàng rào polymer giúp hạn chế sự xâm nhập của vi khuẩn từ bên ngoài vào vết thương, đề phòng bội nhiễm và bảo vệ mô hạt đang hình thành.
Với những đặc tính ưu việt của Copolymer 2-hydroxyethyl methacrylate, HemaRos đã mang đến nhiều tác dụng quan trọng:
Chuyên điều trị các vết thương hở cấp tính và mạn tính:
Sử dụng theo trình tự 4 bước như sau:
Thời gian thay băng từ 12-48 giờ, tùy thuộc vào tình trạng vết thương.
Do HemaRos gel là một dạng bào chế thân nước nên rất dễ bị thấm hút bởi các gạc thấm hút dịch như gạc cotton. Vì thế, để tối ưu hóa hiệu quả của HemaRos, nên kết hợp chung với gạc Vaseline Mastny Tyl.
Gạc Vaseline Mastny Tyl được sản xuất bởi Cộng Hoà Séc, có cấu trúc là Polyester dạng mắt lưới và được phủ thêm một lớp Vaseline đặc.
Tác dụng:
Đóng gói: Gạc 10 x 10 cm, có 2 dạng đóng gói: túi 1 miếng và túi 5 miếng.
Trong quá trình điều trị bằng sản phẩm không phát hiện bất kỳ tác dụng phụ nào như dị ứng, kích ứng da hay đau rát. Với những bệnh nhân có độ mẫn cảm cao có thể gây ra phản ứng hơi ngứa, nhưng đây không phải là những phản ứng có hại. Trong trường hợp có các biểu hiện đau, nổi mẩn đỏ… nên dừng việc sử dụng sản phẩm và báo cho bác sĩ điều trị biết.
Để xa tầm tay trẻ em, không dùng để bôi trong, không dùng khi sản phẩm đã quá hạn sử dụng ghi trên bao bì.
Tuýp 10 g.
Bảo quản ở nhiệt độ 15-25°C.
VH Pharma a.s., Jakubska 647/2, 110 00 Praha 1, Czech Republic.
Vết thương của một bệnh nhân sau khi phẫu thuật cột sống ở Thanh Hóa có dấu hiệu bị bế dịch và khi cắt chỉ vết thương bung ra. Trên bề mặt vết thương xuất hiện rất nhiều giả mạc.
Trong suốt 2 tuần điều trị, vết thương của bệnh nhân được chăm sóc, cắt lọc và thay băng thường xuyên, đồng thời, các bác sĩ tại bệnh viện đã sử dụng nhiều biện pháp như kháng sinh, sát khuẩn… nhưng vết thương không có sự tiến triển, trên bề mặt vết thương luôn xuất hiện lại nhiều giả mạc như ban đầu.
Vết thương có nhiều giả mạc
Sau 2 tuần điều trị tại bệnh viện, các bác sĩ đã quyết định sử dụng HemaRos thoa lên vết thương. Chỉ sau 2 ngày điều trị, vết thương của bệnh nhân đã có sự thay đổi rõ rệt. Giả mạc không hình thành trên bề mặt vết thương, các mô hạt tăng sinh nhanh giúp vết thương đỏ và lượng dịch giảm tiết ra hơn.
Vết thương sau 2 ngày điều trị
Đối với những bệnh nhân phải nằm lâu dài trên giường, vùng cùng cụt thường sẽ bị thiếu máu nuôi dưỡng nên rất dễ bị tổn thương và tạo thành các vết loét. Những vết thương này luôn cần điều trị lâu dài, tuy nhiên, nếu không được chăm sóc tốt, vết loét dễ lan rộng ra, tạo thành những vết thương rộng và sâu hơn. Vì vậy, loét do tỳ đè là một trường hợp khó trong điều trị vết thương.
Một trường hợp bị loét vùng cùng cụt ở một bệnh nhân 85 tuổi và điều trị tại bệnh viện 175, thành phố Hồ Chí Minh. Diện tích vết loét ban đầu rộng, tiết nhiều dịch.
Tình trạng ban đầu của vết loét
Sau đó, bệnh nhân được sử dụng gel HemaRos thoa lên vết thương trong mỗi lần thay băng. Và tình trạng vết thương đã thấy rõ sự cải thiện từng ngày. Vết thương dần đầy lên, bắt đầu biểu mô hoá từ ngoài vào trong, diện tích vết thương thu hẹp dần.
Diện tích vết thương nhỏ dần
Và sau 2 tháng điều trị, vết loét vùng cùng cụt của bệnh nhân 85 tuổi đã hoàn toàn khép miệng.
Vết thương liền hoàn toàn
Những bệnh nhân sử dụng HemaRos cho thấy giảm thời gian liền thương tới 40 – 50% và giảm đau rõ rệt tại vết thương. Khi thay băng không gây dính, không tạo những vết thương mới. Môi trường lành thương ướt giúp vết thương không bị co kéo, không đóng vẩy, từ đó giúp hình thành sẹo sinh lý mềm mại và đẹp.
Bình luận
Viết bình luận